Quán Đoài Khê tọa lạc trên một thế đất rất đẹp giữa làng, khuôn viên quán đã được quy hoạch khá tốt, có nhiều cây cổ thụ và một hồ nước phía trước để tạo cảnh quan; là một công trình tín ngưỡng đẹp, còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc, văn hóa cổ xưa. Tại quán Đoài Khê hiện nay, dấu vết của việc thờ Đạo giáo khá mờ nhạt, về căn bản đây là nơi thờ thần Tích Lịch Hỏa Quang với tính chất là một thần bảo hộ cho làng - thành hoàng; kiến trúc chung của quán không có khác biệt lớn so với các ngôi đình thường gặp.
Ngôi quán nhìn theo hướng đông, ghé nam, hướng kiến trúc truyền thống của người Việt, mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Công trình chính gồm có Phương đình hình vuông phía trước cùng Tiền tế và Hậu cung dạng chữ đinh phía sau. Ngoài ra còn có Nghi môn, bức bình phong, sân gạch, hồ nước, tả - hữu mạc và vườn cây xunh quanh di tích.
Dựa trên khảo sát di văn Hán Nôm tại di tích có thể đoán định một cách khá chắc chắn rằng quán Đoài Khê vốn được dựng cuối thời Lê trung hưng, song do trải qua thời gian cùng điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, công trình ban đầu bị hư hại, sau đó được trùng tu sửa chữa nhiều lần; các lần trùng tu lớn được thực hiện cuối thời Nguyễn, nhiều khả năng rơi vào giai đoạn niên hiệu Thành Thái (1889 - 1907), và Bảo Đại (1925 - 1945). Và đây cũng chính là diện mạo căn bản của di tích như ta hiện thấy. Tuy trải qua nhiều lần tu sửa nhưng quán Đoài Khê vẫn bảo lưu được khá nhiều yếu tố của kiến trúc cổ.
Thọ Vực là một làng Việt cổ nằm ven sông Đáy, thuộc xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng, cách trung tâm Thủ đô chừng 25km về phía Tây. Ngôi đình được xây dựng trên một thế đất đẹp ở giữa làng Thọ Vực, quay hướng Tây nhìn ra dòng sông Đáy cổ, xa xa là đỉnh Tản Viên mây vờn che phủ.
Xa xưa, cư dân Thọ Vực thuộc phường chài Vực Tảng, sống trên sông nước, làm nghề đánh bắt thuỷ sản trên sông Hồng, sông Đáy. Thành hoàng của vạn chài được thờ trong một chiếc thuyền lớn, người dân đi đến đâu thì đưa thuyền đình đến đấy. Rồi sông Đáy bồi lấp, điều kiện sinh sống thay đổi, cư dân Vực Tảng chuyển dần lên sinh sống trên cạn, lập làng Thọ Vực. Cùng đó tổ tiên đã xây dựng ngôi đình để thờ phụng vị thần bảo trợ cho đời sống tinh thần của mình. Ngôi đình đã tồn tại cho đến ngày nay và mang tên gọi quen thuộc của làng là đình Thọ Vực.
Từ trên bờ đê sông Đáy nhìn xuống, chúng ta có thể chiêm ngưỡng đầy đủ hạng mục kiến trúc chính của đình gồm: Nghi môn, tả hữu mạc, Phương đình, Đại bái, Hậu cung và sân vườn rộng rãi.
Đình Thọ Vực là nơi tổ chức nhiều lễ hội truyền thống, đặc biệt là lễ hội đình vào các dịp đầu năm mới và các ngày lễ lớn trong năm. Các lễ hội này không chỉ là dịp để người dân thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, mà còn là cơ hội để gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Với tất cả các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể tiêu biểu đó, đình Thọ Vực đã có đóng góp không nhỏ trong việc nghiên cứu sự phát triển của đình làng Việt và vì thế đình Thọ Vực đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích Lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Xã Tân Hội xưa là Gối Thượng. Thời thượng cổ vùng này gọi là đất Cối Sơn, vốn là vùng sình lầy cỏ hoang, muôn thú đầy đồng. Đây cũng là vùng đất nhiều đầm trũng, ao chuôm vì gần sông Hồng, sống Nhuệ. Vào khoảng thế kỷ XVI Gối Thượng được thành lập gồm bốn làng: Vĩnh Kỳ, Thuý Hội, Thượng Hội và Phan Long (nay là xã Tân Hội, huyện Đan Phượng). Địa bàn này có dòng sông Nhuê chảy qua. Miếu Voi Phục đươc xây dựng ở trung tâm làng Thượng Hội. Lăng Văn Sơn được xây dựng ngoài đồng, ở phía Đông Nam của làng, cách làng khoảng hơn 100m theo đường chim bay.
Lăng Văn Sơn được xây dựng vào năm Chính Hoà thượng giáp (1688); được trùng tu năm 1944. Lăng được xây dựng trên gò đất cao giữ cánh đồng Cầu Ngói (còn gọi là Đồng Dinh), làng Thượng Hội, vốn là doanh trại của Đại nguyên soái Văn Dĩ Thành (1380 - 1416). Người không những là một nhà giáo đức độ, một lương y tài giỏi, mà còn là một nhà quân sự tài ba, tiếng tăm của ngài vang xa vạn dặm. Ngài chỉ huy đội quân Hắc Y (áo đen) với tư tưởng, mục đích cao đẹp: Tất cả vì lợi ích của quốc gia, vì dân tộc, dân sinh. Chính vì thế mà ngài đã cụ thể hóa thành “Lục điều kim ngọc” để răn dạy nghĩa quân. Đó là những nguyên tắc vàng, những kỉ luật nghiêm minh khiến cho đội quân áo đen thêm mạnh mẽ, được mọi người tin yêu theo khắp. Tương truyền, đây là chính mộ của Văn Sĩ Thành, và cũng là nơi Ngài hoá nên còn gọi là Gò Thánh Hoá.
Lăng Văn Sơn cũng là nơi hát Chèo Tàu của tổng Gối xưa. Người đân thường tổ chức hát Chèo Tàu ở đây để ca ngợi các bà mẹ chiêu quân, nhớ công đức của Đại nguyên soái Hắc Y Văn Dĩ Thành và đội quân. Ngày xưa, nhân dân trong vùng tổ chức hội hát chèo tàu(chèo thuyền) vào ngày 15-21/1 âm lịch và 25 năm mở hội một lần . Có thời điểm kéo dài đến 60 năm. Năm 1998 mới mở lại. Từ đó đến nay duy trì 5 năm mở hội một lần.
Miếu Voi Phục và Lăng văn Sơn còn được chứng kiến sự kiện lịch sử cách mạng: Tối ngày 22/02/1947, trung đoàn Thủ đô đã tổ chức cuộc mít tinh lớn ở đây có Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cán bộ cao cấp duyệt binh tập kết trước khi trung đoàn rút sang vùng tự do, mở đầu cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp trường kì.
Tháng 7 năm 1997, Bộ thông tin văn hóa đã công nhận Lăng Văn Sơn và Miếu Voi Phục là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.