Xứ Đoài là nơi có núi sông kỳ tú, cảnh quan thiên nhiên phong phú đa dạng. Từ hàng ngàn năm nay, cho dù đã bao lần thay đổi vị thế hành chính nhưng cái cốt tính xứ Đoài, cái hồn văn hoá bản thổ của xứ sở thì vấn như còn lắng đọng xuyên thời gian và cả không gian trong những công trình kiến trúc văn hoá - lịch sử mà cụm di tích chùa Đôi Hồi và đền Tam Phủ thôn Thu Quế, xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, ngoại thành Hà Nội là một địa chỉ như thế.
Đền Tam Phủ (còn gọi là đền Thu Quế) ở sát bờ sông Đáy, được xây dựng trên khu đất cao thoáng, rộng chừng 1 ha, liền chùa Đôi Hồi.
Đền thờ Thiên Phủ, Địa Phủ, Thuỷ Phủ (nơi thờ trời đất và thuỷ thần). Các thần ấy, trong tâm thức của cư dân lúa nước đều mang tính nữ, trở thành Mẹ - Mẫu. Từ đấy khái quát lên thành đạo mẫu được coi là hiện thân của tất cả sinh lực vũ trụ.
Theo tấm bia năm Chính Hoà thứ 25 đời nhà Lê (1705) dựng tại chùa Đôi Hồi thì đền xây dựng từ thời Đinh khi Đinh Tiên Hoàng cho đắp con đê ở đây. Có thể ngày ấy đền có quy mô nhỏ, nằm ngay ven đê xa làng xóm. Đến khi có truyền thuyết vua Trần dừng xa giá ở xứ này thì đền được xây dựng lại. Theo năm tháng quy mô của đền ngày một to đẹp thêm và như ngày nay. Di tích quay theo hướng nam, hai bên có hai giải vũ được cấu trúc theo kiểu hình chữ tam (三), gồm 3 toà: Tiền tế, Trung tế và Thượng cung.
Trong đền có một tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 19 (1866) ghi lại 9 đạo lệnh chỉ của chúa Trịnh, cho phép nhân dân Thu Quế được miễn phu phen tạp dịch để thờ phụng chư Thánh chư Phật ở đền Tam Phủ và chủa Đôi Hồi.
Với những giá trị hiện còn, đền Tam Phủ thực sự là di sản văn hoá quí của dân tộc cần được trân trọng và gìn giữ. Di tích đã đi vào lịch sử như một niềm tự hào của văn hoá Việt Nam.
ĐTP.013 - Tượng Quan hầu
Khảo tả đặc điểm:
Tượng Quan hầu được làm bằng chất liệu đất phủ sơn màu hồng đỏ và sơn son thếp vàng, thể hiện ở tư thế đứng trên bệ với hai chân đi giày. Đầu tượng đội mũ Phốc đầu sơn then thếp vàng, phía trước mũ trang trí Lưỡng long chầu nhật và hoa vàng. Tượng có khuôn mặt bầu bĩnh, vẻ mặt nghiêm nghị với nước da màu trắng hồng, hai mắt mở to nhìn thẳng, lông mày vẽ đậm dài, mũi tẹt, miệng tự nhiên, râu vẽ hàm én, hai tai to và dài, cổ cao. Tượng mặc triều phục sơn thếp vàng trùng rộng, dưới mặc quần thụng, bụng đeo đai. Trên vai mặc vân kiên sơn màu hồng đỏ trang trí Lưỡng long chầu nhật, viền cổ áo đính hoa vàng, miếng bổ tử sơn màu hồng đỏ trang trí Kỳ lân. Tượng đứng trên bệ hình hộp chữ nhật, tay phải tượng cầm bút lông và tay trái cầm cuốn để trước bụng với dáng đứng trang nghiêm, kính cẩn.
Kỹ thuật chế tác:
Truyền thống